Bệnh nhân tránh được nguy cơ liệt sau khi thoát vị đĩa đệm tái phát nhờ phương pháp phẫu thuật xâm lấn tối thiểu (MISS) chỉ mất 10 ml m.áu, vết mổ 2-3 cm.
Chị Thu Hương (34 t.uổi, quận Bình Tân, TP HCM) phải chịu đựng những cơn đau thoát vị đĩa đệm từ khi mới ngoài 20 t.uổi. Chị Hương nhớ lại, chị đi không được, đứng không xong, ngay cả nằm hay ngồi cũng đau dữ dội. Chị uống thuốc, châm cứu liên tục 2-3 tháng vẫn không tiến triển. Ở t.uổi 21, chị Hương từng mổ thoát vị đĩa đệm, song 13 năm sau, những cơn đau lại tái phát.
Qua thăm khám, bác sĩ chuyên khoa I Trần Xuân Anh (Trung tâm Chấn thương Chỉnh hình Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM) chỉ định mổ khiến cho chị Hương lo lắng.
Bác sĩ Trần Xuân Anh cho biết, hơn 10 năm trước, khi nói đến mổ thoát vị đĩa đệm, không ít bệnh nhân đều e ngại hoặc từ chối vì sợ đau, lo tổn thương dây thần kinh, tủy sống và gây liệt. Khi được giải thích về phương pháp phẫu thuật cột sống hiện đại, xâm lấn tối thiểu (MISS) với vết mổ nhỏ 2-3 cm, chỉ mất 10 ml m.áu, chị Hương mới phần nào yên tâm.
Theo bác sĩ Trần Xuân Anh, thoát vị đĩa đệm ở chị Hương có hiện tượng dính bên trong cấu trúc thần kinh và đĩa đệm nên khó khăn hơn phẫu thuật lấy đĩa đệm đơn thuần. Trường hợp này đòi hỏi phẫu thuật viên phải thật cẩn thận để tách xơ, rễ thần kinh và lấy đĩa đệm ra ngoài. Sự hỗ trợ của các thiết bị công nghệ trong quá trình phẫu thuật giúp tăng hiệu quả và phòng tránh các biến chứng có thể xảy ra.
Hình chụp cột sống của bệnh nhân qua hệ thống chụp CT 768 lát cắt Somatom Drive có khả năng dựng hình 3D.
Bác sĩ Trần Xuân Anh chọn phương án phẫu thuật xâm lấn tối thiểu (MISS) lấy nhân đệm và làm cứng đốt sống bằng phương pháp bắt vít qua da; thay đĩa đệm qua ống nong. Lợi thế của phương pháp này là giúp bệnh nhân bị tổn thương cơ rất ít, vết mổ nhỏ, ít đau đớn và rút ngắn thời gian hồi phục.
Bác sĩ đặt một ống nong đường kính 2,4 cm đi vào cơ thể qua lỗ mở trên da khoảng 3 cm. Bác sĩ dùng kính vi phẫu và máy khoan mài hiện đại, phá bỏ cấu trúc xương và mô sẹo xơ để tiếp cận khối thoát vị. Bước cuối cùng là bóc tách khỏi dây thần kinh, lấy toàn bộ đĩa đệm đã bị mất nước, ghép xương nhân tạo và đưa đĩa đệm nhân tạo vào đúng vị trí thay thế.
Thông qua lỗ mở sẵn có, bác sĩ bắt các vít xuyên qua chân cung cột sống vào thân đốt sống, đặt thanh nối các vít và cố định chúng lại với nhau. Ekip bác sĩ sử dụng hệ thống robot cảnh báo các trường hợp tiếp cận dây thần kinh, bàn mổ có cánh tay C-Arm chụp X-quang liên tục trong quá trình phẫu thuật. Đây chính là trợ thủ để các bác sĩ thực hiện thao tác mà không lo sợ nguy cơ gây tổn thương dây thần kinh – nguyên nhân gây biến chứng liệt sau mổ thoát vị đĩa đệm. Tất cả các thao tác này đều được kiểm soát trên màn hình, thuận tiện theo dõi cho toàn bộ ekip thực hiện.
Bác sĩ phẫu thuật thay nhân đĩa đệm cho bệnh nhân.
Ca mổ ít xâm lấn giúp bệnh nhân nhanh phục hồi
“Ca mổ 120 phút chỉ mất khoảng 10ml m.áu, trong khi mổ bằng phương pháp cũ mất khoảng 200 ml m.áu. Cấu trúc cơ và dây chằng cột sống được giữ lại nguyên vẹn, không bị xâm lấn. Bệnh nhân có thể trở lại vận động sớm, giảm tối đa cơn đau thoát vị đĩa đệm”, bác sĩ Xuân nói.
2 ngày sau mổ, chị Hương có thể đi lại tự nhiên, tập các bài tập vật lý trị liệu nhẹ nhàng phục hồi chức năng. Ngày thứ 5, ổn định vết mổ, chị xuất viện nghỉ ngơi tại nhà.
Bác sĩ Trần Xuân Anh giải thích thêm, hầu hết người bệnh sau khi phẫu thuật cột sống khoảng 2-3 tháng có thể khom cúi người. Thế nhưng, để phòng ngừa các bệnh lý cột sống, bệnh nhân vẫn nên chú ý dùng nẹp cố định và tư thế cúi gập đúng, tránh vặn xoắn thắt lưng, nghiêng người hay khom cúi. 3 tháng một lần chụp phim kiểm tra hệ thống ốc vít. Sau một năm, người bệnh sẽ đ.ánh giá lại về tình trạng hàn xương cột sống.
Thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng là một trong những bệnh lý thường gặp ở độ t.uổi 30-60 và là một trong những nguyên nhân hàng đầu các phẫu thuật cột sống ở người trưởng thành. Đĩa đệm cột sống bị thoái hóa hoặc chấn thương, mất nước nên bị lệch, trượt khiến phần nhân nhầy thoát ra ngoài. Các đốt sống đè lên dây thần kinh gây đau nhức dữ dội, tê bì, mất cảm giác tay chân, không kiểm soát được đại tiểu tiện. Trường hợp nặng, thoát vị đĩa đệm gây teo cơ, nặng nhất là gây tàn phế, người bệnh không thể đi đứng, ngồi hoặc đau đớn khiến không thể vận động, làm việc.
“Thoát vị đĩa đệm không phải là bệnh khó chữa. Bệnh nhân cần phải được tầm soát và xử lý kịp thời bằng các phương tiện hiện đại để đạt được hiệu quả. Với sự phát triển của kỹ thuật y khoa mới, các phương tiện hỗ trợ tân tiến, người bệnh có thể giải tỏa được lo lắng đã cũ về mổ thoát vị đĩa đệm”, bác sĩ Trần Xuân Anh nói thêm.
Tự giảm đau khớp, đau cơ, nên chườm nóng hay lạnh?
Thời gian giãn cách, nhiều tai nạn sinh hoạt, làm việc online liên tục dễ dẫn đến đau khớp, cơ… người bệnh cần biết nên chườm nóng hay lạnh để tự giảm đau.
Theo ThS.BS Trần Anh Vũ (Phó giám đốc Trung tâm Chấn thương Chỉnh hình, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP HCM), chườm nóng và chườm lạnh được xem là giải pháp phản ứng nhanh, dễ dàng áp dụng tại nhà để xoa dịu cảm giác đau nhức do thoái hóa khớp, viêm khớp, gout hoặc chấn thương gây ra. Tuy nhiên, để phát huy tối đa công dụng giảm đau, đồng thời phòng tránh nguy cơ tổn thương da, mô, dây thần kinh quanh khớp, người bệnh cần tuân thủ những nguyên tắc “vàng” khi áp dụng nhiệt nóng hoặc lạnh lên cơ thể.
Có thể áp dụng chườm nóng, chườm lạnh để giảm đau nhức, viêm sưng. Ảnh: Shutterstock
Các trường hợp cần chườm nóng
Liệu pháp chườm nóng là việc sử dụng hơi nóng để làm giãn mạch m.áu, từ đó tăng cường lưu lượng m.áu đến khu vực bị đau nhức, căng cứng, mang lại cảm giác thư giãn cho khớp. Ngoài ra, hơi nóng còn hỗ trợ điều hòa thần kinh cảm giác, giúp con người cảm nhận cơn đau một cách nhẹ nhàng hơn.
Chườm nóng phù hợp với những trường hợp đau do bệnh lý mạn tính bao gồm: viêm khớp, thoái hóa khớp, gout hoặc đau nhức sau 48 giờ gặp chấn thương.
Ngược lại, không nên chườm nóng nếu khu vực đau bị bầm tím, sưng tấy, mất cảm giác, có vết thương hở hoặc người đau khớp có bệnh nền như: bệnh tiểu đường, viêm da, bệnh về mạch m.áu, huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT), đa xơ cứng (MS)… Riêng người mắc bệnh tim, tăng huyết áp hay đang mang thai có thể dùng chườm nóng giảm đau nhưng cần hỏi ý kiến bác sĩ trước khi thực hiện.
Trong chườm nóng, bạn có thể sử dụng hai loại nhiệt khác nhau để trị liệu là nhiệt khô và nhiệt ẩm. Nguồn nhiệt khô đến từ túi chườm nóng y tế, miếng đệm sưởi, sáp parafin, phòng xông hơi khô… Nguồn nhiệt ẩm đến từ khăn tắm hấp, bồn tắm nước nóng, chậu nước nóng, suối nước nóng… Dưới đây là ba cách chườm nóng được áp dụng phổ biến hiện nay.
Cách 1: Dùng các sản phẩm tích nhiệt như tấm đệm sưởi, túi chườm nóng y tế, đai quấn nóng… tác động nhiệt lên vùng bị đau nhức.
Cách 2: Đun chảy sáp parafin rồi để nguội khoảng 43 độ C và đắp lên vị trí khớp bị đau hoặc nhúng nhanh bàn chân, ngón chân, bàn tay, ngón tay trực tiếp vào trong sáp parafin.
Cách 3: Ngâm mình trong bồn tắm, chậu nước nóng từ 33 – 37,7 độ C, suối nước khoáng nóng hoặc tắm bùn.
Ở văn phòng hoặc công sở, bạn có thể dùng miếng giữ nhiệt để ứng phó với cơn đau khớp bất ngờ bùng phát. Nếu mắc các bệnh khớp mạn tính như thoái hóa khớp, gout… bạn nên mang theo những miếng giữ nhiệt nhỏ gọn bên mình, phòng khi cần đến.
Dùng khăn tắm hấp nóng để chườm là cách giảm đau được nhiều người áp dụng. Ảnh: Shutterstock
Lưu ý khi chườm nóng
Khi chườm nóng, bạn chỉ được sử dụng nhiệt độ “ấm” thay vì nhiệt độ “nóng” vì nhiệt quá nóng có thể làm bỏng da. Đối với chườm nóng cục bộ (tức tác động lên một vị trí khớp cụ thể), bạn không nên dùng quá 20 phút mỗi lần. Đối với chườm nóng toàn thân, điển hình là tắm nước ấm hay xông hơi, bạn có thể kéo dài thời gian trị liệu lên 30 phút, thậm chí hai giờ. Sau khoảng một tuần chườm nóng, nếu cảm giác đau không giảm bớt hoặc có dấu hiệu tăng nặng hơn, bạn nên dừng lại và đến gặp bác sĩ.
Các trường hợp cần chườm lạnh
Chườm lạnh (hay liệu pháp áp lạnh) là việc sử dụng hơi lạnh để làm co mạch m.áu giúp giảm lưu lượng m.áu đến khu vực cần điều trị, từ đó giảm đáng kể tình trạng sưng đau và viêm khớp. Phương pháp chườm lạnh được ví như “thoa thuốc tê” nhờ tác dụng ngăn chặn tạm thời dẫn truyền đau lên não, giảm nhẹ mức độ đau nhức khớp, vùng xung quanh khớp.
Biện pháp chườm lạnh áp dụng tốt nhất trong khoảng 48 giờ từ khi cơn đau xuất hiện. Phương pháp này mang lại hiệu quả cao đối với những trường hợp như: viêm khớp cấp tính, bệnh gout cấp tính, đau cổ, vai, gáy, lưng, đầu gối cấp tính và bong gân, trật khớp do chấn thương thể thao, tai nạn giao thông hoặc tai nạn lao động, vận động quá mức, làm việc sai tư thế…
Khi đau khớp kèm biểu hiện chuột rút, tê, mất cảm giác, có vết thương hở hoặc da bị phồng rộp, tuyệt đối không chườm lạnh. Bên cạnh đó, người mắc bệnh về mạch m.áu, tuần hoàn m.áu kém, rối loạn thần kinh giao cảm, bệnh tim cũng được khuyến cáo không nên dùng nhiệt lạnh.
Bạn có thể sử dụng những nguồn nhiệt lạnh khác nhau, chẳng hạn: túi đá, gói gel lạnh, túi chườm lạnh y tế, tắm nước đá, bình xịt hơi mát… để giải tỏa cảm giác đau ở khớp theo một số cách sau đây.
Cách 1 : Dùng túi chườm lạnh y tế hoặc túi gel lạnh đặt lên vùng bị đau trong khoảng 15 – 20 phút và mỗi ngày làm như vậy khoảng 3 – 4 lần mỗi ngày.
Cách 2: Đắp một chiếc khăn mềm đã được làm lạnh lên vị trí khớp đang bị đau, giữ như vậy cho đến khi khăn hết lạnh.
Cách 3: Đặt một chiếc khăn mềm lên khu vực sưng đau, rồi dùng một viên đá lăn theo chuyển động tròn khoảng 5 phút, lặp lại 2 lần mỗi ngày.
Dùng gói gel lạnh đặt lên vị trí bị đau mang lại cảm giác dễ chịu tức thì. Ảnh: Shutterstock
Nếu các khớp nhỏ như khớp ngón tay, khớp cổ tay, khớp cổ chân bị đau nhức, bạn có thể trực tiếp ngâm vào chậu nước lạnh. Tùy vào mức độ đau, tình huống thực tế, bạn hãy lựa chọn cho mình cách thức chườm lạnh phù hợp.
Lưu ý khi chườm lạnh
Bạn không được áp dụng nhiệt lạnh quá lâu hoặc quá trực tiếp vì có thể dẫn đến tổn thương da, mô mềm quanh khớp hoặc dây thần kinh. Nếu dùng đá viên để chườm, luôn bọc đá trong khăn tắm hoặc túi vải rồi mới áp lên vùng cần giảm đau. Mỗi lần chườm chỉ nên thực hiện từ 15-20 phút. Trong vòng 48 giờ áp dụng chườm lạnh, nếu cảm giác đau ở khớp không thuyên giảm, hãy gọi cho bác sĩ để được hỗ trợ.
Ngoài ra, ThS.BS Trần Anh Vũ cũng lưu ý thêm, người bệnh cần xác định rõ là việc dùng nhiệt trong chườm nóng, chườm lạnh chỉ có thể giúp giảm nhẹ cảm giác đau nhức tạm thời, không thể giải quyết dứt điểm quá trình viêm – nguyên nhân gốc rễ của phần lớn cơn đau khớp. Chưa kể, nếu áp dụng đơn thuần phương pháp chườm lâu ngày mà không kết hợp các loại thuốc điều trị, sản phẩm giảm đau thì theo thời gian, tác dụng giảm đau tức thời sẽ bị suy giảm.
Do đó, bên cạnh chườm nóng, chườm lạnh, người bệnh cần được bác sĩ chuyên khoa thăm khám nếu cơn đau khớp, sưng viêm tăng nặng hoặc kéo dài. Đồng thời chú trọng xây dựng lối sống lành mạnh, tăng cường các dưỡng chất tốt cho xương khớp. Các nghiên cứu khoa học cho thấy, khi xương khớp bị đau nhức, việc kết hợp bổ sung các tinh chất như Collagen Type 2, Collagen Peptide, Turmeric Root, Chondroitin Sulfate… sẽ góp phần làm giảm viêm, giảm đau, thúc đẩy tái tạo sụn và xương dưới sụn hiệu quả. Nhờ đó, xương khớp được bảo vệ toàn diện từ trong ra ngoài, cử động linh hoạt, khỏe mạnh dài lâu.